Chuẩn đoán bệnh qua Môi - Miệng (phần 3).

Ngày tạo: 14-06-2017

(Tiếp thep phần 2 và hết)
1. Các nốt mẩn trên giải môi: 
Xung quanh giải môi, trên niêm mạc môi có các nốt mẩn to bằng hạt kê hình tròn, hơi nhô cao lên trên bề mặt niêm mạc, màu sắc trong suốt, phần chân đế hơi đơ, đây cũng là một dạng ban giun đũa. Căn cứ vào đó có thể chẩn đoán trẻ em bị giun đũa, tỷ lệ dương tính đạt 96%.
 
2. Xuất hiện vật dư thừa trên giải môi: 
Trên giải môi xuất hiện những vật dư thừa có dạng như hạt gạo màu trắng, đây là tín hiệu bệnh đau lưng cấp tính và mạn tính. Theo quan sát 27 bệnh nhân bị tổn thương khớp xương eo mông, có 22 người có biểu hiện triệu chứng này; Trong 77 bệnh nhân bị gai xương eo thì có 18 người có biểu hiện triệu chứng trên.
 
2. Căng Môi: 
Môi miệng nhỏ hẹp, khó khép mở, ăn uống khó khăn, gọi là Căng Môi. Đa số là do phong đàm nhập lạc gây ra.’ 
 
3.    Há miệng: Miệng há ra mà không khép lại được, gọi là chứng há miệng. Chủ về hư chứng. Nếu miệng há ra mà khí chỉ ra mà không trở lại, là Phế khí sắp tuyệt. Miệng há ra như miệng cá mà không khép lại được, là tỳ vị sắp tuyệt. Người bị trúng phong mà miệng há ra là tâm khí sắp tuyệt. Há miệng lắc đầu, kêu như Dê kêu là triệu chứng động kinh. Người bị động kinh mà há miệng trợn mắt, hôn mê bất tỉnh là triệu chứng cực nguy. 
 
4. Cấm khẩu: 
Miệng khép mà không thể mở ra, hàm răng cắn chặt, gọi là cấm khẩu. Người bị cấm khẩu không nói, đồng thời bị co giật là bị bệnh kinh phong. Nếu cấm khẩu mà kèm theo bán thân bất toại là triệu chứng nguy hiểm trúng phong nhập tạng. 
 
* Nếu đột nhiên bị cấm khẩu không nói được, tay chân cứng đơ bất toại, gọi là “phong phị”. Phụ nữ sau khi đẻ bị cấm khẩu kinh giật, choáng ngã sùi bọt mép, hôn mê bất tỉnh, là trúng gió độc. Phụ nữ có thai bị cấm khẩu không nói được, gân mạch nổi hằn lên loạn xạ, hôn mê co giật, lúc phát lúc không, gọi là “Tử nhàn” (bệnh động kinh). Bị bệnh đến 6 – 7 ngày, 3 bộ mạch tay chân đều đến, phiền táo, cấm khẩu không nói năng gì, đó là biểu hiện bệnh tà sắp giải.
 
5. Nhiếp khẩu: 
Miệng co rút trở nên nhỏ hẹp, không thể mở miệng hoặc khép miệng, gọi là nhiếp khẩu triệu chứng này thường gặp ở bệnh nhân bị thương phong, nếu là trẻ em thì đa số là bị phong rốn, là do can phong ép tỳ gây ra, triệu chứng cực nguy hiểm. Nếu đồng thời thấy miệng phèo bọt trắng, tứ chi tê lạnh, môi miệng co rút căng cứng, thể lưỡi cứng thẳng, là chứng khó trị.
 
6. Khẩu tịch: 
Góc miệng méo biến dạng sang bên trái hoặc bên phải, gọi là khẩu tịch, hay còn gọi là Khẩu oa (méo miệng): 
Thường thấy ở trường hợp các bệnh nhân bị trúng phong, là do can kinh phong đàm trở lạc gây nên. 
 
7. Khẩu chấn, khẩu động: 
Là biểu hiện môi trên môi dưới rung động, dạng như bị rét run cầm cập, gọi là khẩu chấn. Là do dương khí bất chấn gây nên, thường thấy ở bệnh nhân bị sốt rét thời kỳ đầu. Miệng đóng mở liên tục không thể tự khống chế được, gọi là khẩu động, là vị khí sắp tuyệt vong.
 
8. Nháy Môi: 
Môi miệng rung động không thể tự kìm chế được, gọi là nháy môi. Đa số là do huyết hư phong táo gây nên, hoặc tỳ hư huyết táo, môi mất nguồn nhu dưỡng, hoặc do vị hỏa kèm phong quấy nhiễu lên môi. Người bị nháy môi và mắt liên tục là Dương Minh tuyệt tận.
 
9. Lạc giá phong: 
Xương hàm dưới hạ xuống khiến miệng há ra không khép lại được, gọi là Lạc giá phong. Là do mạch Dương Minh bị hoãn dọc không thu lại được gây nên.
 
10. Nhìn môi chẩn thương: 
Trên phần môi xuất hiện gân đỏ cong gập, có điểm ứ huyết hoặc mụn màu trắng, đây là tín hiệu báo thương có sự tổn thương trong cơ thể. Thường là ở đoạn cuối đường gân đỏ cong gập có biểu hiện điểm ứ huyết, điểm ứ huyết phần lớn có hình vuông, sắc trạch đỏ tươi, hoặc có xuất hiện mụn nước có dạng dải hơi nhô ra, đầu có mủ, màu đỏ hoặc màu trắng. Nếu tín hiệu báo thương xuất hiện ở môi trên, biểu thị bị thương ở phần lưng, nếu ở môi dưới là biểu thị bị thương ở phần ngực, nếu ở hai bên là bị thương ở phần nách.
 
V – Chẩn đoán khí vị.  
 
Nếu miệng thở ra khí nóng, khẩu khí hôi thối là vị tràng thực nhiệt; Miệng phả ra mùi hôi thối đồng thời khạc ra đờm có máu mủ, thân nóng là phổi đã thành ung nhọt, ung thư; miệng phả ra mùi tanh hôi có kèm mùi máu tanh, đa số là thuộc chứng huyết; miệng thường xuyên phả ra khí uế, là tỳ vị tố vận thấp nhiệt, trọc khí thượng xung; trong miệng tỏa ra mùi táo nát, là chứng tiêu khát nặng; miệng phả mùi rượu thối là dạng nát rượu hoặc do thấp nhiệt nội uẩn; người bị bệnh thủy khí thì miệng luôn có mùi khai nước tiểu, nếu buồn nôn, nôn mửa, chán ăn, biểu hiện bệnh ác tính hóa; Nếu người bệnh có biểu hiện tích tụ dưới mạng sườn phải, thân có biểu hiện triệu chứng hoàng đản, trong miệng thở ra mùi mốc, là bệnh tình diễn biến ác tính hóa, dự báo phát triển xấu.
 
VI – Chẩn đoán khẩu vị.
 
1. Trong miệng không khô, không khát mà ăn không biết vị, là miệng trung hòa, chức năng tỳ vị bình thường. tân dịch đầy đủ.
 
2. Miệng tỏa mùi nhạt, không muốn ăn, gọi là khẩu sảng, là tỳ vị khí hư, chức năng vận hóa kém; miệng tràn nước trong, là trung tiêu có hàn; miệng ngọt hay còn gọi là khẩu cam, trong miệng dính nhầy, là trung tiêu bị thấp nhiệt nội uẩn; miệng tỏa vị chua, chủ về gan, vị uẩn nhiệt; khẩu vị chua thiu là triệu chứng thương thực; miệng đắng là gan mật nhiệt thượng phạm hoặc uất hỏa gây nên; khẩu vị cay hoặc thể lưỡi có cảm giác tê cay, là do phế vị tích nhiệt; miệng có vị mặn là thận dịch thượng thừa, là do thận hư và chứng hàn; tự cảm thấy miệng có mùi thơm là tiêu khát nặng; miệng lưỡi tê dại, vị giác giảm sút là chứng tê dại; đối với trẻ em có khẩu vị gàn dở, thích ăn bùn đất, lạc, vv, là tỳ hư nội nhiệt, có trùng tích bên trong. 
 
VII – Miệng khát: 
 
1. Miệng khát mà muốn uống nước gọi là miệng khát, còn miệng khát mà không muốn uống nước gọi là miệng khô, hay còn gọi là miệng táo. Đều do thiếu hụt tân dịch trong cơ thể hoặc tân dịch không thể thượng thừa lên cổ họng mà gây nên khát.
 
2. Miệng không khô khát là tân dịch chưa tổn thương, là người bình thường hoặc hơi có chứng hàn; nếu miệng khát mà uống nước nhiều là tân dịch bị tổn thương, nếu là chứng thực nhiệt thì khát nặng, thích uống nước lạnh, mặt đỏ nóng, mạch thực, thường gặp ở trường hợp nhiệt ở phần khí, nhiệt kết ở Dương Minh.
 
3. Người bệnh tiêu khát uống nhiều nước, đồng thời ăn nhiều mà người thì tiêu gầy, tiểu tiện nhiều lần, có thể nước tiều vẩn đục, nước tiểu có vị ngọt. Đây là hiện tượng phế táo tổn thương tân dịch, hoặc tâm hỏa vượng, âm khí phế thận bị tiêu tán gây nên. Nếu phế hàn khí không hóa thủy, uống 1 thải 2, là chứng khó trị.
 
4. Miệng tuy khát mà không uống nhiều nước, hoặc miệng khô, là do tà nhiệt, thương tân nhẹ, hoặc do tân dịch vận bố bị trở ngại; miệng khô về đêm càng nặng, nhưng uống nước không nhiều. Đa số là do âm hư nội nhiệt.
 
5. Miệng khô mà không uống nước, hoặc tuy khát nhưng uống ít nước, hoặc thích uống nước nóng, Là hiện tượng thấp trọc thủy ẩm nội trở, tân dịch không thượng thừa gây nên; Miệng khát muốn uống nước, nhưng uống vào lập tức nôn ra, tiểu tiện bất lợi, là chứng thủy nghịch; Người bị thủy thấp vốn không khát, sau khi dùng thuốc thì thấy khát, là biểu hiện thủy thấp đã giải; Người bị thủy ẩm sau khi nôn mửa thì thấy khát, là tà thủy ẩm sắp giải. 
 
                                                                                                                   VIỆN VBI & RIAFR
                                                                                                                            Viện trưởng
                                                                                                                CGCX Nguyễn Ngọc Sơn.
 
 
 

 

CẢM TƯỞNG CỦA HỌC VIÊN
THÀNH TÍCH
TRẤN TRẠCH - MỘ TRẠCH - NÂNG SINH KHÍ
NHÂN TƯỚNG HỌC
BẠN CẦN BIẾT
CLB NĂNG LƯỢNG CẢM XẠ
  • Tổng bài viết đọc hôm nay: 873
  • Tổng bài viết đọc hôm qua: 5736
  • Tổng bài viết đọc tháng này: 78697
  • Tổng bài viết đọc tháng trước: 164034
  • Tổng bài viết đọc năm nay: 242731
  • Tổng bài viết đọc năm trước: 1757484
  • Tổng số khách truy cập hôm nay: 873
  • Tổng số khách truy cập hôm qua: 5736
  • Tổng số khách truy cập năm nay: 242731
  • Tổng số khách truy cập năm trước: 1757484
  • Số người trực tuyến: 49
New