Hạnh Tàm - Quí là gì?
Hạnh TÀM QUÝ là thiện tâm sở rất quan trọng; vì không có hạnh này, người ta dễ tạo tội lỗi và đi vào thế giới ác ma. Cảm thấy xấu hổ khi người xem thường mình, cảm thấy xấu hổ khi được người kính trọng, nhưng thực sự mình không đáng kính trọng.
TÀM - QUÝ là hai tâm sở thiện trong "Đại Thiện Địa Pháp" của Nhất Thiết Hữu Bộ thuộc Pháp tướng Tông, gọi chung là: HỔ THẸN. Luận Câu Xá quyển 4 nêu ra 2 cách giải thích về Tàm và Quý như sau:
- Cách thứ nhất: Tàm là lòng tôn kính các công đức và người có đức, Quý là lòng sợ tội lỗi.
- Cách thứ hai: Tàm là khi mình phạm tội mặc dù không có ai biết nhưng tự cảm thấy hổ thẹn, còn Quý là khi mình tạo tội mọi người đều biết mà mình xấu hổ.
(Phật Quang Đại Từ Điển tập 4)
KINH TRUNG A HÀM
5. PHẨM TẬP TƯƠNG ƯNG
45. KINH TÀM QUÝ
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
“Nếu có Tỳ-kheo nào không tàm không quý thì làm tổn hại ái và kỉnh. Nếu không có ái và kỉnh thì làm tổn hại tín. Nếu không có tín thì làm tổn hại chính tư duy. Nếu không có chính tư duy thì làm tổn hại chính niệm chính trí. Nếu không có chính niệm chính trí thì làm tổn hại gìn giữ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu không giải thoát thì làm tổn hại Niết-bàn.
“Nếu Tỳ-kheo nào biết hổ thẹn thì có ái và kỉnh. Nếu có ái và kỉnh thì thường có tín. Nếu có tín thì thường có chính tư duy. Nếu có chính tư duy thì thường có chính niệm chính trí. Nếu có chính niệm chính trí thì thường giữ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu giải thoát thì liền được Niết-bàn.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Tàm quý, VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.259)
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
- Có hai diệu pháp ủng hộ thế gian. Thế nào là hai? Nghĩa là có tàm, có quý. Này các Tỳ-kheo, nếu không có hai pháp này, thế gian sẽ không phân biệt có cha, có mẹ, có anh, có em, có vợ con, tri thức, tôn trưởng, lớn nhỏ sẽ cùng lục súc heo, gà, chó, trâu, dê v.v... đồng một loại. Do thế gian có hai pháp này ủng hộ, nên thế gian ắt phân biệt có cha, có mẹ, anh em, vợ con, tôn trưởng, lớn nhỏ, cũng không đồng với lục súc. Thế nên, các Tỳ-kheo, nên tập có tàm, có quý. Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!.
HT.Thích Trí Quảng cũng đã nói:"Hạnh TÀM QUÝ là thiện tâm sở rất quan trọng; vì không có hạnh này, người ta dễ tạo tội lỗi và đi vào thế giới ác ma. Cảm thấy xấu hổ khi người xem thường mình, cảm thấy xấu hổ khi được người kính trọng, nhưng thực sự mình không đáng kính trọng. Biết xấu hổ thì tiến tu được. Dẹp được tâm vô tàm vô quý, trí tuệ chúng ta sáng lần, thấy được việc chính xác hơn; với tâm trung thực, chúng ta mới nhận ra sai lầm của mình trước kia".
Theo tu viện Chơn Như: TÀM QUÝ
- Tàm là mắc cỡ, xấu hổ trước mặt mọi người về một việc làm sai trái của mình.
- Quý là tự mình cảm thấy xấu hổ về việc làm sai trái của mình mặc dù không có ai thấy, hay biết.
Người muốn giữ gìn giới luật mà không biết xấu hổ thì không bao giờ giữ gìn giới luật được. Cũng như người muốn tu thiện pháp mà không biết xấu hổ thì không bao giờ tu thiện pháp được.
Người muốn tu hành giải thoát mà không biết xấu hổ thì không bao giờ có giải thoát được.
Qua kinh điển và lời giáo huấn của Chư tôn túc, Tàm-Quý là căn bản trong 11 thiện tâm sở, giúp cho "con" có giá trị làm người. Một người làm sai không biết hổ thẹn, hối lỗi thì người chỉ có giá trị của bản chất "con" như bao con động vật khác.
Bậc cao đức do từ Tàm-Quý mà đã trở thành khiêm hạ trước mọi đối tượng. Có vị tu sĩ tuổi đã cao, thế mà nói chuyện với bất cứ ai cũng tự xưng mình là con. Họ không bao giờ dám xưng thầy đối với ai cho dù đức độ của họ đáng là bậc thầy. Ngược lại, người thiếu tính Tàm Quý thì thường xưng thầy trước mọi đối tượng, cho dù đối tượng đó đáng tuổi cha mẹ ông bà.
Thế gian vì thiếu tính Tàm - Quý mà không phân biệt đúng sai phải quấy đã đành; tôn giáo, một tu sĩ không có Tàm-Quý thì không còn nhân cách một tu sĩ. Cho dù đứng trước hàng vạn người thao thao bất tuyệt mà không biết Tàm-Quý có nghĩa là không biết xấu hổ việc sai phạm mình vừa làm thì có nghĩa biết rất nhiều, biết đủ thứ mà không biết xấu hổ, xem như không đủ nhân cách để làm thầy thiên hạ.
Đối nghĩa của Tàm-Quý là vô tàm, vô quý, là bất thiện tâm sở, một trong những chướng ngại lớn trên con đường tiến hóa tâm linh. Một khi đã vô tàm vô quý thì sẽ không đủ trí tuệ phân biệt đúng sai, kiến thủ, chấp thủ. Cho dù kinh điển hay các bậc cao minh xác định điều đó là sai, nhưng vì vô tàm vô quý, cứ khư khư cố chấp nên đi xa chính pháp, xa chính lý để tự mình chấp nhận con đường đi xuống; chẳng những thế còn đanh mất "ái" "kính". Ái kính không có thì "tín" cũng không có, dẫn đến không có chính tư duy, đánh mất chính niệm chính định... lạc vào tà kiến, dẫn dắt đồ chúng sa vào ngụy tín.
Theo định nghĩa của Đại Tự điển Phật Quang, người biết Tàm là người có lòng tôn kính các công đức và người có đức, nghĩa là người biết khiêm hạ và biết lắng nghe, không xem sự hiểu biết của mình là vượt trội mọi người, thậm chí xem kinh điển là lỗi thời hạn hẹp... Tự mình lập thành học thuyết tà mị vì chối bỏ kinh điển cổ nhân. Người vô Tàm là người cao ngạo, không bao giờ biết tiến thủ. Còn Quý là lòng sợ tội lỗi. Vì không biết Quý nên không tội lỗi nào mà không dám làm. Có thể làm tội lỗi không ai biết nhưng người có lương tâm phải biết ăn năn sợ tội, vì không biết ăn năn sợ tội nên tiếp tục sa vào hành động sái quấy, chỉ che mắt được mọi người nhưng lương tâm không thể không cảm thấy sợ sệt, nếu phạm lỗi mà không biết sợ sệt thì thuộc dạng không còn thuốc chữa, thuộc loại nhất xiểng đề.
Tóm lại, TÀM - QUÝ là một trong 11 thiện tâm sở, là căn bản bước đầu cho việc tu tập của người con Phật đúng nghĩa. Sau khi Phật thành đạo triệt phá được ma quân nội tâm, dẫn dắt đệ tử tiếp tục hành trình chuyển hóa nghiệp chướng, khai mở tuệ giác, Ma vương bất lực, tuyên thệ trước mặt đức Thế tôn:
Ta không phá được ngươi, ta thề sẽ phá đệ tử người sau khi người nhập diệt. Ăn cơm Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai, trụ xứ Như Lai để hủy pháp Như Lai, đó là hiện tượng ngày nay đã xuất hiện khắp nơi mà trang mạng chỉ là một phát hiện nhỏ giữa cuộc sống bộn bề. Ma quân cũng như ma vương làm gì có Tàm - Quý!
Thế nào là "Phật Pháp?" Phật Pháp tức là Thế Gian Pháp, nhưng là thứ pháp mà người đời không muốn thực hành. Người đời suốt ngày bận rộn, lo lắng, bôn ba; nếu nguyên do chẳng phải là do lòng ích kỷ thì cũng vì muốn bảo toàn sanh mạng, tài sản, cuộc sống cá nhân.
Phật Pháp không vì ích kỷ riêng tư, mà hoàn toàn vì công ích, vì lợi lạc của thế nhân. Vì vậy, kẻ học Phật Pháp phàm làm gì, nói gì cũng nên vì người khác. Phải coi nhẹ chính mình, sẵn sàng xả thân vì người khác, và không gây phiền-não, khổ đau cho kẻ khác. Ðó chính là Phật Pháp vậy.
Vì sao Phật muốn độ chúng sanh? Vì Ngài thấy rằng: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta." Bởi "cha mẹ" của Ngài đang ở trong sáu nẻo luân hồi chịu khổ đau; do đó, bất luận thế nào Ngài cũng phải cứu độ chúng sanh, hy vọng rằng "cha mẹ" của Ngài sẽ được xa lìa khổ não, được hưởng sự an vui!
Ðức Phật có đại trí huệ; chúng ta có đại ngu si. Do đó, chúng ta phải học Phật, học trí-huệ của Ngài. Chúng ta phải lấy tâm Phật làm tâm mình, lấy nguyện của Phật làm nguyện của mình; lúc nào cũng thực tập Từ, Bi, Hỷ, Xả bốn thứ tâm thái không bến bờ; lúc nào cũng phải tu tập Pháp Môn "Nan nhẫn năng nhẫn, nan hành năng hành," điều khó nhẫn mình có thể nhẫn, việc khó làm hay không ai muốn làm thì mình có thể làm.
Học Phật thì chẳng nên học những thứ cao siêu, thâm áo, vì:
"Tâm bình thường là Ðạo,
Tâm thẳng thắn là chùa".
Cho nên, mọi người hãy dùng lòng ngay thẳng mà tu hành!.
Làm sao để khiến Ðạo Pháp thêm huy hoàng? Trước hết, hãy nuôi dưỡng, vun bồi một phẩm cách cao thượng, tốt đẹp. Khi nền móng vững vàng thì lầu cao mới không sụp đổ; do đó, mọi kiến trúc cao vọi đều được dựng lên từ nơi nền móng kiên cố. Ðối với chuyện tu dưỡng, nếu chúng ta muốn xây đắp một nền tảng chắc thực thì trước hết phải vun bồi phẩm cách, tập tành đạo đức.
Bất luận là Ðại Thừa, Tiểu Thừa, hay Phật Thừa, thừa nào đầu tiên cũng dạy chúng ta phải trừ khử thói hư tật xấu, lỗi lầm sai quấy, dứt bỏ vô-minh, phiền não, tham, sân, si.
Nếu bạn có thể quét sạch mọi thói hư tật xấu thì tự nhiên sẽ tương ưng với nghĩa lý kinh điển. Tật hư, lầm lỗi không trừ, thì bạn chẳng bao giờ có thể thấu hiểu được nghĩa lý trong kinh!.
Các bạn hãy dùng chân-tâm mà niệm Phật. Niệm một tiếng Phật thì trong hư không sinh ra một đạo hào-quang. Nếu bạn khẩn thiết, chí tâm niệm Phật, thì đạo hào-quang này sẽ chiếu khắp Tam-thiên thế giới, khiến cho không khí trong ba ngàn Ðại-thiên thế giới trở nên kiết tường, bao nhiêu thứ không khí ô nhiễm, độc địa, tai ương đều biến đổi hết.
Hằng ngày chúng ta niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát; song, "Quán Thế Âm" nghĩa là gì?
"Quán Thế Âm" tức là quán xét các âm thanh ở cõi thế gian. Quán cũng có nghĩa là nhìn, song không phải nhìn bên ngoài, mà là nhìn vào tâm của chúng sanh.
Khi chúng ta niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát thì không nên cúi đầu xuống mà niệm. Phải ngẩng đầu lên để biểu thị tinh thần dũng mãnh, tinh tấn; không nên có vẻ ủ rủ, hết hơi, hết sức.
Nếu bạn muốn học Phật Pháp, bạn nhất định cần phải tinh tấn, dũng mãnh, giống như con cọp từ núi cao xồng xộc lao xuống, nhai nuốt nghiệp chướng của mình!
Nhớ lấy! Nhớ lấy! Người mới bắt đầu học Phật nhất định phải tu Hạnh Nhẫn Nhục. Dù cho có người thật sự muốn giết bạn, bạn cũng tuyệt nhiên chớ sanh lòng sân hận!
Người học Phật cần phải:
"Nhận thật mình là sai,
Ðừng trách cứ lỗi người.
Lỗi người là lỗi mình,
Ðồng thể mới Ðại Bi!"
Người học Phật phải tự hỏi mình: "Tôi bố-thí là cầu danh vọng hay thật tâm muốn giúp kẻ khác? Tôi trì Giới, nhẫn nhục, tinh tấn, tập Thiền-Ðịnh, tu trí huệ... là để cho người ta xem, hay vì tôi thật sự muốn tu hành?"
Tu Ðạo không phải là đeo mặt nạ, giả dối đóng kịch, làm điệu bộ để cho người khác xem. Tu Ðạo là hoàn toàn dựa vào công phu nội tại của chính mình. Ðổ hơi sức ra làm, dụng công một chút thì thu hoạch được một chút. Dùng một phần thành tâm thì được một phần cảm ứng. Tất cả đều phải chân thật, không giả dối. Chớ tự lừa mình, lừa người!
Kẻ học Phật cần phải chịu thua lỗ, thiệt thòi. Ðại Sư Vĩnh-Gia Huyền-Giác có câu:
"Quán lời ác, là công đức,
Thầy lành của ta là kẻ ấy!
Chẳng vì chửi mắng sanh thương, ghét,
Sao tỏ Vô-Sanh Từ Nhẫn Lực?"
Có người chửi mắng bạn, đó là giúp bạn trở thành tốt hơn; bạn cần phải:
Nghịch hay thuận, đều tinh tấn,
Chê hay khen, chẳng động tâm!
Ðừng nên vì bị chế nhạo, nhục mạ mà sanh lòng oán hận. Phải coi kẻ oán ghét và người thân yêu đều như nhau, và dùng lòng nhân ái mà đối xử với họ; nếu không vậy thì làm sao thể hiện được sức mạnh từ-bi phát xuất từ Vô-Sanh Pháp Nhẫn?
Vì sao dụng công mà chẳng đạt đến chỗ tương ưng? Là vì những tập khí, thói quen từ vô lượng kiếp để lại quá sâu đậm. Do đó, lòng tuy muốn hướng về Bồ-đề, song, sự thật thì chẳng chịu tiến bước tới trước, cứ muốn thụt lùi. Phải biết bởi thói quen quá nặng, nghiệp chướng lại cũng sâu dày, nên mình càng cần phải vất bỏ vọng tưởng. Vất bỏ vọng tưởng không khóớchỉ cần quên bẵng chính mình đi, thì vọng tưởng sẽ chẳng còn!
Người tu Pháp Môn Niệm Phật, ở mọi thời mọi nơi phải niệm không gián đoạn, không ngừng nghỉ sáu chữ "Nam mô A Di Ðà Phật." Lúc thức cũng niệm, lúc ngủ cũng niệm. Phải niệm sáu chữ hồng danh "Nam mô A Di Ðà Phật" làm sao mà kéo cắt không đứt, bẻ chẳng gãy, kiếm chém không rời. Phải dùng sức kiên cố như kim cương mà niệm.
Nếu bạn không có cách gì phá hoại nổi chuổi hồng danh "Nam mô A Di Ðà Phật" thì đó mới gọi là thực hành phép Niệm Phật Tam-Muội. Niệm Phật thì như vậy, tụng Kinh và trì Chú cũng phải giống như thế.
Khi Phật còn tại thế, có lần Ngài bốc một nắm đất, rồi hỏi chư đệ tử: "Các con nói xem, đất trong lòng bàn tay Ta nhiều hay đất trên mặt đất này nhiều?"
Ðệ tử thưa: "Ðương nhiên là đất trên mặt đất nhiều, còn đất trong tay Thế Tôn thì quá ít ỏi."
Ðức Phật liền nói:
"Ðắc nhân thân giả,
Như chưởng trung thổ.
Thất nhân thân giả,
Như đại địa thổ."
Nghĩa là: "Những kẻ được thân người thì ít như nắm đất trong tay Ta; còn những kẻ mất thân người thì nhiều như đất trên mặt đất vậy."
Những ai mất thân người, đọa lạc trong đường ác, quả thật nhiều như đất trên mặt đất vậy!
Thiền Tông là pháp môn "chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật" và cũng chính là Ðốn Giáo. Ðốn Giáo là do siêng năng tu hành Tiệm Giáo mà raớlý tuy đốn ngộ, sự cần tiệm tu.
Hiện giờ, chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi, đều thuộc về tiệm tu. Chờ đến một ngày nào đó, khi bạn chân chánh sáng tỏ, thì sẽ hoát nhiên khai ngộ; lúc đó gọi là đốn ngộ. Ðốn không tách rời tiệm. Tiệm vốn trợ giúp đốn.
Những kẻ tu hành hễ tu pháp gì thì cho pháp đó là hay nhất; vì nếu không hay nhất thì họ không vui vẻ, không chịu tu pháp đó! Nếu các bạn thật sự hiểu được rằng "tất cả các pháp đều là Phật Pháp, tất cả đều không thể nắm bắt được," thì sẽ nhận thấy rằng chẳng có thứ gì để mà chấp trước vào cả.
Ðốn ngộ là do bình thường dụng công mà ra. Khi công phu đạt đến chỗ tương ưng thì bạn hoát nhiên khai ngộ. Nếu bình thường không dụng công, thì bạn chẳng thể nào đốn ngộ được.
Những sai lầm trong hạnh bố thí.
Qua những phần trước, ta đã có một ý niệm về thế nào là bố thí trong sạch...
Tinh tấn tương tự như một áo giáp là sức mạnh động lực của ta...
Mật tông Tây Tạng tại Việt nam.
Mật tông, hay Kim Cang thừa, là giai đoạn phát triển thứ ba của tư tưởng Đại thừa ...
Tham lam, tự kiêu, ganh tỵ, ghét bỏ, sân hận, dục vọng, thèm khát, đố kỵ, đặt điều, hãm hại v.v.v...
Hôm nay là sự chuẩn bị cho ngày mai.
Phật ở trong ta, Phật là giác ngộ. Hôm nay là sự chuẩn bị cho ngày mai
- Tổng bài viết đọc hôm nay: 2924
- Tổng bài viết đọc hôm qua: 0
- Tổng bài viết đọc tháng này: 2924
- Tổng bài viết đọc tháng trước: 160637
- Tổng bài viết đọc năm nay: 484020
- Tổng bài viết đọc năm trước: 1774359
- Tổng số khách truy cập hôm nay: 2924
- Tổng số khách truy cập hôm qua: 0
- Tổng số khách truy cập năm nay: 484020
- Tổng số khách truy cập năm trước: 1774359
- Số người trực tuyến: 27