.jpg)
Tên khoa học: Kaempferia galanga L.
Tên khác: Thiền liền, Lương khương.
Họ: Gừng (Zingiberaceae).
I. Hình dạng:
* Thân cỏ sống nhiều năm nhờ thân rễ, rễ có khi phình thành củ nhỏ hình trứng.
*Thân rễ phình thành nhiều củ cạnh nhau, mùi thơm và cay, lớp vỏ ngoài màu nâu vàng, mặt cắt ngang gần tròn, đường kính 2-3 cm, màu vàng nhạt, có nhiều xơ màu trắng, chia làm 2 vùng bằng một vòng ranh giới màu trắng.
* Lá đơn, thường 2 (ít khi 3) lá mọc xòe sát mặt đất. Phiến lá hình bầu dục, dài 8-9 cm, rộng 6-7 cm, ngọn lá nhọn, gốc thuôn; mặt trên gần như nhẵn, màu xanh lục sậm; mặt dưới nhiều lông mịn và dài, màu trắng xanh, vùng ngọn màu đỏ tía; mép lá nguyên, hơi gợn sóng, viền trắng hay đỏ tía; gân lá song song, cong về phía ngọn lá, gân giữa to, lõm ở mặt trên, lồi ở mặt dưới. Bẹ lá dài 2,5-3 cm, rộng 1,5-2 cm, hình lòng máng, dày, phía gốc màu trắng, phía trên màu xanh lục nhạt, nhiều gân dọc song song, ôm chặt nhau thành một thân giả cứng cao 1,5 cm. Lưỡi nhỏ dạng màng mỏng, màu trắng có rìa nâu, cao 1-2 mm.
* Cụm hoa mọc lên từ thân rễ, đi qua ống tạo bởi các bẹ lá, không cuống, mang nhiều hoa, thường mỗi lần chỉ có 1 hoa nở. Hoa to, không cuống, không đều, lưỡng tính, mẫu 3. Lá bắc dạng phiến mỏng, uốn cong hình lòng máng, đầu thuôn nhọn, dài 3-3,5 cm, rộng 1-1,5 cm, phía gốc màu trắng, phía trên màu xanh lục nhạt. Lá bắc con ở phía trục hoa đối diện lá bắc, chẻ dọc từ gốc thành 2 phiến rời dạng dải hẹp, dài 2-2,5 cm, rộng 1-1,5 mm, màu trắng, có gân dọc ở giữa. Lá đài ở hoa nụ dính nhau thành một ống kín, màu trắng, dài 2,8-3 cm, đỉnh chia 2 răng rất nhỏ; khi hoa nở ống đài xẻ dọc ở phía trước từ đỉnh xuống một đoạn 0,5 cm. Cánh hoa màu trắng, dính nhau bên dưới thành một ống hẹp, dài 4,5-5 cm, trên chia thành 3 phiến mỏng, không đều, dạng dải, dài 2-2,5 cm, đầu nhọn uốn cong ra phía ngoài, hai mép thường cuộn vào phía trong, có nhiều gân dọc; phiến giữa ở phía sau rộng 4-5 mm, hai phiến bên rộng 2-3 mm. Nhị đính trên miệng ống tràng thành 2 vòng: (1) vòng ngoài gồm 2 nhị lép phía sau ở hai bên biến đổi thành 2 phiến màu trắng, dài 18-20 mm, rộng 8-10 mm, gốc thuôn hẹp hơi dày thành một cán dài 5 mm, phía trên nở rộng thành hình bầu dục đầu nhọn, nhiều gân dọc; nhị trước trụy không còn dấu vết; (2) vòng trong gồm 2 nhị lép phía trước và 1 nhị thụ phía sau; nhị lép dính nhau thành một cánh môi to, màu trắng, gốc có bớt tím ở giữa, giữa phần màu tím có một vệt dài màu vàng, dài 25-35 mm, phía dưới thuôn hẹp thành một cán dài 15-20 mm, rộng 8-10 mm, phía trên là một phiến rộng dài 10-15 mm, rộng 20-24 mm, chia làm 2 thùy; nhị thụ đứng đối diện với cánh môi; chỉ nhị không có; bao phấn dạng phiến, màu trắng, dài 4-4,5 mm, rộng 2-3 mm, mặt trong mang 2 ô phấn xếp dọc, mọng nước; chung đới kéo dài thành một phiến mỏng dài 4-4,5 mm, rộng 2-3 mm, màu trắng, uốn ra phía ngoài khi hoa nở, chia 2 thùy hình bầu dục, uốn cong xuống phía dưới; hạt phấn màu trắng, thường hình cầu, đường kính 100-110 µm, có khi hình bầu dục hay hình trứng, dài 110-155 µm, rộng 100-112 µm. Lá noãn 3, dính nhau thành bầu dưới 3 ô, mỗi ô 2 hàng noãn, đính noãn trung trụ; bầu màu trắng ngà, dẹp, dài 2,5-3 mm, rộng 1-1,5 mm, rải rác lông mịn màu trắng; vòi nhụy 1, dạng sợi, nhẵn, màu trắng, dài 40-45 mm, đi qua khe dọc giữa 2 ô phấn; đầu nhụy 1, màu trắng, loe thành hình phễu miệng có rìa lông.
Đặc điểm giải phẫu:
* Vùng vỏ:
Tầng lông hút với nhiều lông hút rõ ở những rễ non, ở rễ già chỉ còn vết tích tầng lông hút với một vài tế bào móp méo không đều, vách tẩm chất bần. Tầng suberoid 3-5 lớp tế bào hình đa giác, vách mỏng, xếp khít nhau thành từng dãy so le. Mô mềm vỏ tế bào vách cellulose, chia làm 2 vùng: (1) mô mềm vỏ ngoài nhiều lớp tế bào hình tròn hay bầu dục méo mó, sắp xếp lộn xộn, chừa những đạo hay khuyết nhỏ; (2) mô mềm vỏ trong 2-5 lớp tế bào hình bầu dục, càng vào phía trong tế bào càng nhỏ, xếp thành dãy xuyên tâm và vòng đồng tâm, chừa những khuyết nhỏ. Nội bì 1 lớp tế bào hình chữ nhật hay hình bầu dục dẹt, vách trong và 2 vách bên tẩm ligno-suberin dày lên thành khung hình chữ U rõ. Tế bào tiết tinh dầu nhiều, rải rác trong vùng mô mềm vỏ; tinh dầu màu vàng sậm.
* Vùng trung trụ:
Trụ bì 1 lớp tế bào hình đa giác hay hình bầu dục dẹt, vách cellulose, xếp xen kẽ với tế bào nội bì. Bó dẫn cấp 1 ngay dưới trụ bì, gồm 12-14 bó libe và 12-14 bó gỗ xếp xen kẽ nhau trên một vòng. Bó libe thành từng cụm nhỏ hình bầu dục, phân hoá hướng tâm. Bó tiền mộc gồm 2-3 mạch nhỏ không đều, phân hoá hướng tâm với mạch nhỏ phía ngoài, mạch to phía trong. Mạch hậu mộc 8-10, có thể tiếp xúc hay không tiếp xúc với bó tiền mộc. Tia tủy 1-2 dãy tế bào mô mềm ở giữa bó libe và bó gỗ. Mô mềm tuỷ chia 2 vùng: vùng ngoài tế bào hình đa giác, vách dày tẩm chất gỗ, xếp khít nhau; vùng trong tế bào hình tròn, vách cellulose, xếp chừa những đạo. Tế bào tiết tinh dầu rải rác trong vùng mô mềm .
* Lá
Gân giữa lõm ở mặt trên, lồi ở mặt dưới. Biểu bì tế bào hình bầu dục, tế bào biểu bì trên to hơn tế bào biểu bì dưới; lớp cutin có răng cưa. Lông che chở ít gặp, đơn bào, dạng sợi hẹp và rất dài, đầu nhọn, kéo dài từ 1 tế bào biểu bì. Mô mềm có những khuyết to xếp thành một hàng xen giữa 2 bó libe gỗ, chia làm 4 vùng: (1) mô mềm trên (vùng ngay dưới biểu bì trên) tế bào to, nhỏ dần về phía dưới, hình gần tròn, xếp chừa những đạo rất nhỏ; (2) mô mềm giữa quanh bó libe gỗ và ở bìa các khuyết thì tế bào nhỏ, hình bầu dục, chứa nhiều lục lạp, xếp chừa những khuyết nhỏ; (3) mô mềm xốp trong các khuyết to có tế bào hình sao phân nhánh, thường bị hủy; (4) mô mềm dưới (vùng ngay trên biểu bì dưới) 5-7 lớp tế bào hình đa giác, xếp chừa những đạo rất nhỏ. Bó libe gỗ cấp 1 kích thước không đều, xếp thành 2 lớp: lớp trên là 3 bó nhỏ, xếp ở giữa gân; lớp dưới là các bó to, xếp xen kẽ với các khuyết to. Mỗi bó gồm gỗ ở trên, libe ở dưới; gỗ gồm mạch gỗ nhỏ, không đều, sắp xếp lộn xộn, mô mềm gỗ hình đa giác, xếp khít nhau, vách cellulose; trên bó gỗ và bao dưới bó libe thường có cụm mô cứng; bao quanh bó libe gỗ là vùng mô mềm với những tế bào nhỏ, chứa nhiều lục lạp.
* Phiến lá:
Biểu bì tế bào hình đa giác hay hình chữ nhật dẹt, lớp cutin có răng cưa; biểu bì trên tế bào to, ít lỗ khí; biểu bì dưới tế bào nhỏ, nhiều lỗ khí. Lông che chở cấu tạo tương tự ở gân lá. Mô mềm chia làm 4 vùng: (1) mô mềm trên (vùng ngay dưới biểu bì trên) tế bào rất to, hình gần tròn, xếp chừa những đạo rất nhỏ, lớp tế bào dưới cùng hình trứng; (2) mô mềm giữa bao quanh và nối liền các bó libe gỗ tế bào nhỏ, hình bầu dục, chứa nhiều lục lạp, xếp chừa những khuyết nhỏ hay đôi khi bị hủy tạo thành những khuyết to; (3) mô mềm xốp trong các khuyết to có tế bào hình sao phân nhánh, thường bị hủy; (4) mô mềm dưới (vùng ngay trên biểu bì dưới) 5-7 lớp tế bào nhỏ, hình đa giác, xếp chừa những khuyết to hay nhỏ. Bó libe gỗ cấu tạo tương tự ở gân giữa và thường được bao quanh bởi một vòng tế bào mô mềm hình bầu dục hay gần tròn. Tế bào tiết tinh dầu rải rác trong mô mềm.
Bẹ lá: Vi phẫu cắt ngang lõm sâu ở mặt trên. Biểu bì, lông che chở và mô mềm tương tự như gân giữa lá. Bó libe gỗ cấu tạo tương tự ở gân giữa, kích thước không đều, xếp thành 3 lớp hướng về biểu bì dưới; các bó ở lớp giữa to, xen kẽ các khuyết, vùng mô mềm bao quanh chứa nhiều lục lạp; các bó ở trên và ở dưới các khuyết (gần sát biểu bì) rất nhỏ; trên bó gỗ và dưới bó libe có thể có cụm mô cứng hay mô dày. Tế bào tiết tinh dầu rải rác trong vùng mô mềm.
Đặc điểm bột dược liệu:
Bột màu trắng ngà, mùi thơm cay.
Soi kính hiển vi thấy: Mảnh bần màu nâu nhạt, tế bào vách dày. Mảnh mô mềm tế bào vách mỏng, có chứa nhiều tinh bột hoặc chứa tinh dầu màu vàng sậm. Mảnh mạch xoắn, mạch vạch. Hạt tinh bột rất nhiều, hình trứng hay hình bầu dục, kích thước 16-32,5 x 7,5-22,5 µm, đôi khi hình 3 cạnh hay hình tròn, đường kính 8,5-22,5 µm, có rốn và vân không rõ.
Phân bố, sinh học và sinh thái, thu hoạch:
Cây của Á châu nhiệt đới phân bổ ở Ấn Độ, Nam Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Campuchia, Malaysia, inđônêxia và Việt Nam). Ở nước ta, Địa liền mọc rải rác ở rừng vùng núi thấp và trung du, và mọc tương đối tập trung ở những rừng khộp họ Dầu ở vùng Tây Nguyên. Địa liền cũng thường được trồng lấy củ thơm làm gia vị và làm thuốc. Trồng bằng thân rễ vào mùa Đông xuân. Thu hái thân rễ vào mùa khô. Đào củ về, rửa sạch, thái phiến mỏng, xông lưu huỳnh rồi phơi khô, sao cho dược liệu không bị đen và kém thơm. Do có tinh dầu nên Địa liền dễ bảo quản, ít bị mốc mọt.
Thành phần hóa học:
Trong Địa liền có tinh dầu, trong tinh dầu thành phần chủ yếu là bocneola metyl, aldehyd cinamic, cinamat etyl, p-metoxycinamat etyl, kaempferol, kaepferid-4’-metyl este, 1,8-cineol, pentadecan, xineola. Thân rễ Địa liền chứa 2,4-3,8% tinh dầu, để lạnh sẽ thu được phần kết tinh mà thành phần chủ yếu là p-methoxyethylcinnamat chiếm 20-25%; còn có những chất khác như pentadecan, V3 caren, ethylcinnamat, O methoxy ethylcinnmat, p methoxy ethylcinnamat, canphen, borneol, p methoxystyren.
Hình ảnh cây Địa Liền.
Tác dụng dược lý - Công dụng:
Địa liền có công năng ôn trung tiêu, tán hàn, trừ thấp, kiện tỳ vị; chủ trị tê thấp, đau nhức xương khớp, nhức đầu, răng đau, ngực bụng lạnh đau, tiêu hoá kém; còn dùng trị tiêu chảy, hắc loạn và ho gà. Ngày dùng 4 - 8 g, dạng thuốc sắc, bột hoặc viên. Ngâm rượu 40 - 50% trong 5 - 7 ngày để xoa bóp với một số vị khác.
Bộ phận dùng: Thân rễ - Rhizoma Kaempferiae, thường gọi là Sơn nai hoặc Tam nai. Địa liền có vị cay, tính ấm, có tác dụng âm trung tiện, trừ nề khí. Nước chiết ở củ có tính hạ đờm, lợi trung tiện. Người ta đã nghiên cứu về tác dụng giảm đau, hạ sốt và chống viêm của Địa liền.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: thường dùng trị ăn uống không tiêu, ngực bụng lạnh đau, tê phù, tê thấp, nhức đầu, đau răng do phong. Còn được dùng để trị ỉa chảy, hoắc loạn và trị ho gà.
Cách dùng:
Ngày dùng 3-6g dạng thuốc sắc, thuốc bột hay viên hoặc ngâm rượu. Rượu Địa liền (ngâm củ Địa liền trong rượu 40-50 độ, trong 5-7 ngày) có thể dùng xoa bóp hoặc uống làm bớt nhức mỏi gân cốt, đau lưng và làm cho máu huyết thông hoạt. Cũng dùng trị nhức đầu và phù thũng. Nước chiết củ dùng trị ho, làm bớt hôi miệng, làm cao dán trị nhức mỏi. Lá và củ cũng dùng ngậm cho bớt ho và làm cho hết hôi miệng. Rễ còn dùng chế vào mỡ xức tóc cho thơm.
Đơn thuốc:
1. Cảm sốt nhức đầu: Thân rễ Địa liền 5g, Bạch chỉ 5g, Cát căn 10g, tán bột làm viên uống. Ta thường sản xuất viên Bạch địa căn này (gồm Địa liền 0,03g, Bạch chỉ 0,10g, Cát căn 0,12g) dùng làm thuốc hạ sốt, giảm đau trong bệnh sốt xuất huyết và sốt cao ở một số bệnh truyền nhiễm; còn có tác dụng kháng khuẩn chống bội nhiễm.
2. Ngực bụng lạnh đau, tiêu hoá kém: Địa liền 4-8g, sắc uống hoặc tán bột uống.
3. Chữa ho gà, Địa liền: 300g, lá Chanh 300g, vỏ rễ Dâu (tẩm mật ong) 1000g. Rau sam tươi 1000g, Rau má tươi 1000g, lá Tía tô 500g, đường kính vừa đủ, nấu với 12 lít nước, có còn 4 lít. Trẻ em mỗi ngày uống 15-30 ml.
Ghi chú: người âm hư, thiếu máu, hoặc vị có hoả uất không dùng.
VIỆN VBI & RIAFR
Viện trưởng
CGCX Nguyễn Ngọc Sơn.