GS-TSKH-VS Nguyễn Xuân Trường Tiến; Chủ tịch Hội Cơ Học Đất và Địa Kỹ thuật Công Trình Việt nam, VSSMGE. Email: Tien.nguyentruong@gmail.com, Tel: +84 903405769
(THE MOST IMPORTANT CULTURAL VALUE OF VIETNAM WITH WISDOM AND GREEN VISION FOR SUSTAINABLE DEVELOPMENT
Prof. Dr. Academician Nguyen Xuan Truong Tien, President of Vietnam Society for Soil Mechanics and Geotechnical Engineering, VSSMGE)
Tóm tắt: Tinh hoá văn hoá Việt nam là các giá trị hữu hình và vô hình được tinh lọc trong lịch sử 20000 năm, dựng nước và giữ nước. Được thể hiện trong văn hoá, văn hiến, văn minh : Lúa nước, Trống Đồng và Cồng chiêng, Thuyết Nhân Quả, Luân Hồi và Tiến Hoá, Tiếp nhận thông tin từ vũ trụ, phần âm, dự báo và Văn minh tâm linh. Triết học Việt nam là Phật giáo, Lão Giáo và Nho giáo, khác với văn hoá và triết học của Trung quốc, Ấn Độ, phương Tây, phương Đông. Vua Phục Hi (8000 năm) là Phật A DI ĐÀ, tác giả của lịch âm, ngũ hành, phong thuỷ, kinh dịch và khởi đầu nền văn minh nông nghiêp. Thần Nông là người dậy người Việt trồng lúa nước và thuần phục đàn gia súc ở vùng Ba Vì, Thạch Thất. Thánh Mẫu Đỗ Quý Thị là Hương Vân Cái Bồ Tát, mẹ của Ngọc Hoàng Kinh Dương Vương, Cha của Lạc Long Quân. Đệ nhị Mẫu Hồng Đăng Ngàn là Mẹ Lạc Long Quân, nên chúng ta nói con cháu Lạc Hồng. Lạc Long Quân lấy Mẫu Âu Cơ và đẻ ra Vua Hùng. Chúng ta có 18 đời Vua Hùng và 108 Vua Hùng. Thứ tự đúng của Ngũ hành là: Thuỷ, Mộc, Hoả, Thổ, Kim Nước là khởi đầu và kết thúc sự sống....Phong thuỷ là gió và nước, nhưng thực chất là năng lượng. Nước là người, là tình thương yêu, là khoa học, là dân an, là sự sáng tạo. Đạo đức của người Việt là : Nhân, Lễ, Nghĩa,Trí,Tín, cũng là Ngũ hành, Nhân là Nước. Thiên Địa Nhân hợp nhất là ba quẻ dịch: Càn, Khôn, Khảm Địa lý Việt nam cách đây 5500 năm là từ phía Nam sông Trường giang. Kinh Dương Vương là Vua của Kinh Châu và Dương Châu, Triệu Đà là Vua nhà nước Nam Việt, Cụ quê ở Bình Đà, Hà Đông. Kinh đô cổ của Việt nam Phong Châu là ở Phố Xốm , Vân nội. Trên cở sở của các tài liệu, khảo cổ, nghiên cứu thực địa và bằng sự mách bảo của tâm linh, các giá trị văn hoá Việtnam về âm nhạc,chữ viết, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật,công nghệ, triết học, đạo đức đã được trình bầy, chứng minh và kết luận. Sự thay đổi phương pháp tư duy, sử dụng triết học Việt nam, tư duy minh triết, tầm nhìn xanh và Đạo Đức Kinh sẽ giúp cho sự phát triển bền vững
Abstract: The most important cultural value of Vietnam are : Buddha ,Tao Lao and Confucius of Vietnam. PhucHi King is ADIDA, he was the Great Master, who made the moon calendar, Ying and Yang, Fenshui, Five basic materials and Iching. He was the King of Cuc Lac, very happy country. Than Nong was Genius of rice water, he helped our farmers to develop agriculture in the Red River Delta about 8000 years ago. The First Mother Angel was Do Quy Thi- Huong Van Cai Bo Tat. She was Mother of Kinh Duong Vuong and Great Mother of Lac Long Quan. Second Mother Angel was Hong Dang Ngan, she is Mother of Lac Long Quan. The third Mother Angel was Au Co. Lac Long Quan and Au Co were Father and Mother of Hung King. Vietnam had 108 Hung Kinh, which started about 5000 years ago. The correct order of 5 basics materials are: water, trees, fire, earth and gold Water is the most important material, it is the Origen and the end of life.The 5 code of ethics are: love (water), courtesy (trees), appreciation (fire), smart (earth) and confidence (gold) ater is science, innovation, ideas. Water is wind, energy and air. Tree is engineering, Fire is technology, earth is investment and gold is trade. The Area of Vietnam 5500 years ago was from the South of Truong Giang River. Trieu Da was the King of Nam Viet , the Capital is Quang Chau City. He is Vienamese and from Binh Da, Ha Dong, Ha noi The Vietnamese Cultural Value are : Philosophy, Ying and Yang, God, Earth and Person are unit, music, arts, bronze drums, pagoda, historical monument, legend, poem, as well as the stories of our Mothers We can change the way of thinking,knowing the Vietnamese philosophy, then we can develop a better quality of life and we build a better world. Water is most important value for sustainable development
Lời Mở đầu
Tổ Tiên người Việt chia thời gian thành Thượng nguyên 3 lần 20 năm, tiếp theo là Trung nguyên 3 tiểu vận 60 năm và Hạ nguyên có các tiểu vận 7, 8 và 9, tổng là 60 năm. Tổng cộng là có 9 tiểu vận, 20 năm và thành 180 năm, lại quay về Tiểu vận sô 1. "Thời vận chưa tới, mưu cầu vô ích", là lời dặn của các Cụ. Vận nước đã đến rồi, nghĩa là đã thuận ý Trời, ý đất và lòng người. Các Cụ dặn "Thiên cơ bất khả lậu" Nghĩa là nói chuyện cơ trời, vận nước, không được nói sai. Năm hết tết đến, ai cũng muốn biết năm mới có gặp may mắn không? Có an lành không? Có rủi ro gì? Nên làm gì? cho sướng vui, hạnh phúc?. Xin làm theo lời dậy của Tổ Tiên, của dòng tộc Nguyễn Xuân và lời dặn của Cha tôi , Nhà giáo Nguyễn Xuân Thảo, trước lúc đi xa, ở tuổi 100, vào ngày 16/8 Quý Tỵ, để viết những dòng này, như một nén Tâm Hương.
"Công Cha như núi Thái Sơn, Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra, một lòng thờ Mẹ kính Cha, cho tròn chữ Hiếu, mới là Đạo con"...." Mặc ai cho bạc cho vàng, không bằng mách lối chỉ đàng cho ta", Đây là ba Đạo Đức: Nhân, Lễ, Nghĩa của con con người. Xin nhớ mãi tâm sự của Cha tôi, kẻ sĩ nước Nam, khi những Người bạn tri kỷ, cùng học trường Bưởi, là Luật sư Nguyễn Văn Lưu (Xe) và Bác sĩ Vũ Văn Cẩn (Pháo) ra đi, Cụ còn ở lại, làm con Ngựa, lẻ loi, cô đơn:
"Xe, Pháo đi rồi, Mã chơ vơ,
thi gan tuế nguyệt đến bao giờ,
còn đâu những phút cùng tâm sự,
Kẻ sĩ bây giờ thực, thực, hư".
Đúng và sai, thực và hư, tốt và xấu, chính đạo và tà đạo, mê tín và tâm linh, giá trị văn hoá thuần Việt, của người Việt ở Phương Nam được phân tích và trình bày dưới đây, của một kẻ sĩ quèn. Chỉ là những giọt nước, hạt cát của núi, của sông, của cây, của cỏ, của gió thượng ngàn, với tấm lòng Trung, Hiếu, cởi mở và chân thành, "mua vui cũng được một vài trống canh"... " Trông Trời, trông đất, trông mây, trông mưa,trông gió, trông ngày, trông đêm, trông cho chân cứng đá mềm, trời yên biển lặng mới yên tấm lòng" và mong cho "Dân an, nước yên, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Theo đúng ngũ hành và lời dặn của Tổ Tiên. "Khôn cũng chết, dại cũng chết, chỉ có biết mới sống". "Lấy bất biến ứng với vạn biến" là lời dậy của Tổ Tiên. Biết và Bất biến là Tinh hoa văn hoá Việt, là Triết học Việt nam, là tư duy minh triết, là Văn Minh Tâm Linh, là cây đời mãi mãi xanh tươi, "Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi" (Nguyễn Trãi), " Kiếp sau xin chớ làm người, làm cây thông đứng giữa Trời mà reo" (Nguyễn Công Trứ), "Cuộc đời tôi chỉ là cơn gió thoảng" (Nguyễn An Ninh), "Không có gì quý hơn Độc Lập, Tự Do" (Hồ Chí Minh), "Mỗi một ngày tôi sống là một ngày vì Tổ Quốc" (Võ Nguyên Giáp), "Quyền lực, Danh lợi, Tiền bạc không bao giờ thay được Tình yêu thương, Tri thức và Phúc Đức của Tổ Tiên" (Nguyễn Xuân Thảo)
______________
Chúng ta đang ở Vận 8 ( 2004-2023), năm Quý Tỵ của Thần Rắn, mệnh thuỷ. Sang năm Giáp Ngọ, sẽ bước vào nửa sau vận 8, vận của Phật, mệnh Kim, số 6 của Ngọc Hoàng và các Mẫu, chắc chắn sẽ mang lại những điều tốt lành và đổi thay tích cực, cân bằng âm dương. Hơn 1000 năm qua, đã chứng minh, cứ vào vận 8 và 9 ( 2024-2043), nước Nam không có chiến tranh chống ngoại xâm, dẫn đến bị mất nước. Đất nước không bị đô hộ, vẫn có Chủ quyền, đất nước lại thịnh vượng, thanh hương. Vận 8 là của Phật, vận 9 là của Thánh Mẫu. Nước Nam có Phật, Ngọc Hoàng, Mẫu,Thần, Thánh và các linh hồn linh thiêng trợ giúp. Khởi đầu vận 8 của thế kỷ thứ 12 ( 1104), có chiến thắng của Lý Thường Kiệt, đầu vận 8 của thế kỷ 13 (1285 và 1288), có chiến thắng của Trần Hưng Đạo .Hai vận 8 và 9 của thế kỷ 17, từ 1644 đến 1683 có các cuộc nội chiến giữa Trịnh, Nguyễn, Lê, Mạc là theo lời tư vấn của Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, từ thế kỷ 16. Nhà Mạc lên Lạng sơn, giữ phía Bắc, Nguyễn vào Quảng Bình, mở đầu cho việc mở cõi về phía Nam. Hai vận 8 và vận 9 cuối cùng là thuộc thế kỷ 18, từ 1824-1844-1863. Những năm cuối vận 9 , vào năm 1858, Pháp bắt đầu xâm chiếm Việt nam, sau 56 năm muốn thôn tính, nhưng đến hết vận 9, cũng chỉ làm chủ được một số tỉnh ở phia Nam. Năm mới ai cũng mong muốn dân an, nước yên, hay " Quốc Thái Dân An". Tinh hoa văn hoá Việt là các giá trị thiêng liêng, hành trang quý báu để con cháu biết và ngộ. Biết mình là ai, biết Tổ Tiên người Việt là ai, biết khiêm tốn, cởi mở, chân thành, vô vi, hư không đề tìm về cội nguồn. Biết không lo lắng, giận hờn, hận thù, biết không tham, sân, si, biết không sợ ai , biết Đạo Đức là sức mạnh và biết tin vào tương lai của dân tộc một cách minh triết với tầm nhìn xanh. Biết dùng nội cảm chứ không phải ngoại cảm. Biết cái Rốn là nơi khởi đầu của sự sống, của cơ thể con người. Nơi nhận tình yêu thương, dinh dưỡng và tri thức của Mẹ. Người con nhận Phúc Đức từ Mẫu, có Tổ tông từ Mẫu. Cả cuộc đời này, đừng ai làm cho Mẹ phải khóc vì con bất hiếu, bất trung. Biết suy nghĩ bằng cái bụng, bằng lòng tốt của Mẹ cho con.
Trải qua 22 cuộc chiến tranh giữ nước từ hơn 2000 năm nay, trong lịch sử hơn 2 vạn năm dựng nước, sau gần 65 năm dành Độc lập, Tự Do ( Ất Dậu, 1945), 60 năm Điện Biên Phủ (Giáp Ngọ, 1954), 42 năm Điện Biên Phủ trên không (Nhâm Tý, 1972), gần 40 năm thống nhất Nam Bắc ( Ất Mão, 1975) ...đã đến lúc chúng ta có thể viết, nói, nghe, nghiên cứu, cảm nhận và nhận thức về Tinh hoa Văn hoá Việt vào năm Thần Rắn bàn giao cho Thánh Ngọ. Tinh hoa Văn hoá Việt là các giá trị vô hình và hữu hình của Người Việt ở Phương Nam. Được chắt lọc qua 2 vạn năm, tồn tại đến hôm nay, được người Việt nam truyền miệng, giữ gìn , gửi gắm và dấu trong Ngọc Phả, kinh Phật, ca dao, tục ngữ, chữ viết, tranh vẽ, hoành phi, câu đối, chuyện cổ tích, chuyện ngụ ngôn. Chúng ta có hát xoan, hát ghẹo, chầu văn, ca trù, quan họ từ 2500 năm. Việt nam có hát chèo 1000 năm, diễn tuồng 700 năm, ca Huế 500 năm và hát Cải Lương 80 năm. Trống Đồng và Cồng chiêng có thể hoà tấu bất kỳ bản nhạc nào của Trời, Đất và Người. Trống Đồng được dùng để nói chuyện với Trời, Đất và các Linh hồn linh thiêng. Các tinh hoa văn hoá Việt được khắc ghi trên Trống Đồng, Cồng Chiêng, mái Chùa, mái Đình, mái Đền, nhà thờ Họ, Phủ... Được thể hiện trong Bát quái, Ngũ hành, phong thuỷ, kinh dịch....Trong các đình, đền , chùa Việt lưu giữ các Đạo của Việt nam: Đạo Mẫu, Đạo Phật, Đạo Trời, Đạo Đất, Đạo Hiếu, Đạo Trung, Đạo thờ Tổ Tiên, các Thánh, các Thần, Đạo Nho ( Việt)..." Trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn nước non" , là lời dậy của Tổ Tiên. Vì qua các cuộc chiến tranh, các sách vở, ngọc phả, gia phả....đã bị đốt, phá, thay đổi theo ý muốn của người nước ngoài, chúng ta chỉ có thể tìm được các tinh hoa văn hoá Việt từ truyền miệng của Cha , Mẹ và mách bảo của tâm linh.Chúng ta cởi mở tiếp nhận các Đạo, các tư tưởng triết học của Bắc, Tây, Đông...nhưng đều được Việt nam hoá. Nở hoa,kết trái trên cây Đa Việt nam. Giống cây Lúa, cây Tre, cây Dâu Việt nam. Đây là ba cây chụm lại, nên hòn núi cao, thể hiện đặc tính, phẩm chất, tinh cách của văn hoá, văn hiến Việt: Mềm dẻo, nhẫn nại, khiêm tốn, dẻo dai, chuyển động theo gió, lớn lên theo mưa, sống bầy đàn, đoàn kết tựa vào nhau mà sống, tắt lửa tối đèn có nhau. Cây Lúa nuôi sống con người, cây dâu nuôi tằm, nhả tơ, dệt lụa, cây tre làm nhà, làm cầu, giữ đất, bảo vệ văn hoá làng quê, đánh giặc và làm thang lên Trời. Người Việt biết chọn lựa những tinh hoa văn hoá của nhân loại, nhưng mãi mãi giữ đạo nhà. Đạo thờ cúng Tổ Tiên, Tinh hoa văn hoá Việt nam đã được ra đời với tình yêu thương mênh mông như nước Đại dương,trí tuệ huyền quang, tâm hồn huyền diệu, lương tâm Thánh Thiện và sự Linh Thiêng của Tổ Tông người Việt. Tinh hoa văn hoá Việt nam thấm đẫm nhân văn, sinh ra trênmảnh đất địa linh, nhân kiệt, vùng đồng bằng Châu thổ sông Hồng, sông Cái, sông Mẹ. Đứt gẫy sông Hồng theo hướng Tây Bắc Đông Nam, được tiếp nhận những năng lượng linh thiêng của Trời, Đất, Nước. Nghĩa là Trời, Đất đã chọn Việt nam để tụ khí, tụ linh, tạo nên các anh hùng, hào kiệt...
Tinh hoa văn hoá Việt nam là Triết học Việt nam, Văn hoá Lúa nước, Văn hoá Hoà Bình, Văn hoá Đông sơn, Văn hiến Lạc Việt,Tư duy Minh Triết, Trống Đồng, Chữ Viết, Âm Nhạc, Nghệ thuật, Cồng Chiêng, Đình, Đền,Chùa, Miếu, Ngọc Phả, Phong Thuỷ, Kinh Dịch, Âm Dương, Ngũ hành, Thái cực, Lưỡng nghi, Thiên địa nhân, Tứ tượng, Tạo hoá xoay vần, 6 hào dịch....Được tinh lọc và thể hiện trong Đạo Phật, Đạo Lão và Đạo Nho ( Việt). Khác với Đạo Khổng của nhà Hán, Đạo Nho phương Bắc, Đạo Phật của Ấn Độ, Triết học của Phương Tây, văn minh của Pháp...Chủ nghĩa cộng sản, nền cộng hoà, dân chủ của văn minh Tây phương Giữ gìn tinh hoa văn hoá Việt, phát triển văn hoá Việt là trách nhiệm của con cháu Lạc Hồng. Tinh hoa văn hoá Việt, văn minh tâm linh, triết học Việt nam là tài sản vô giá để nước và giữ nước. Hình dáng nước Nam là chữ S. S của sung sướng, hài lòng ( satisfaction ), an toàn ( safety). Chữ S âm, hợp với S dương ( nhìn thấy), sẽ là hình số 8 của Bát Quái, có mắt Cá là Hà nội, Thành phố Hồ Chí Minh và tâm là Đà nẵng, Ngũ Hành Sơn. Các cuộc chiến tranh giữa Trịnh, Nguyễn, Lê, Mạc , theo tiên đoán của Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, là một quá trình mở cõi nước Nam, hình thành chữ S của sáng lạn, minh triết. Tổ Tiên ta đã khởi đầu các nền văn minh với văn minh lúa nước, văn minh công nghiệp Trống Đồng, văn minh sinh học (nhân quả, luân hồi,tiến hoá), văn minh tin học ( ngoại cảm, nội cảm, sang tai, lai mắt, giáng bút...). Nay sẽ khởi nguồn Văn minh tâm linh. Đúng theo lời dự báo của Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm :" 500 năm nữa (2044), Việt nam thái bình, Mười phương tìm đến, Con cháu lại về với Tổ Tông". Mười Phương là kể cả Trời và Đất. Cụ Trạng Trình là người đầu tiên gọi tên nước là Việt nam, ngược với Nam Việt của Triệu Đà. Việt nam chính thức là tên gọi của Tổ quốc vào năm 1802. Năm Nguyễn Ánh - Gia Long lên ngôi Vua, đóng đô ở Huế. Chúng ta có Đèo Ngang của Mẫu Đất, Đèo Cả của Cha Trời và Đèo Hải Vân của Thần Thánh nước Nam. Chúng ta lại có Tam Đảo, Ba Vì của Phật và của Thánh. Có Đảo Cát Bà ( Các Bà) của Mẹ, Cát Hải ( Các Biển ) của Cha Rồng và Cát Tiên ( Các Tiên) của Tiên cảnh bồng lai. Có đất Quảng Ninh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi. " Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm, rượu Hồng Đào chưa uống đã say". Vì người phương Nam vô cùng nhạy cảm, rượu của Mẹ Hồng là rượu trắng của gạo , nhuộm hồng bằng các chân hương đỏ, thờ cúng Tổ Tiên. Bến Tre, Mỏ Cày là cây tre, cái cầy của châu thổ sông Hồng. Con cháu vào dựng nhà nước Phù Nam. Kéo dài từ đồng bằng sông Cửu Long , qua Căm pu chia và Thái lan. Vì vậy, người Thái vẫn về Tây bắc, tìm kiếm cây Chuối của Cội nguồn Tổ Tiên. Đi qua Ấn độ, qua Nam Trung hoa, Nhật, Hàn Quốc, Đài loan, Asean, đều có thể gặp tinh hoa Văn hoá Việt.
Thật là tự hào, chúng ta có nhà nước Cực Lạc, Hồng Bàng, Xích Quỷ (ao Quỷ Đỏ ở phương Nam), Văn Lang, Nam Việt, Vạn Xuân, Đại Việt, Đại Ngu, Việt nam với Văn minh lúa nước và thuần phục trâu cấy cầy....từ thời Vua Phục Hy và Thần Nông của nhà nước Cực Lạc. Đóng đô ở Thạch Thất Hà nội, vua Phục Hy là A DI ĐÀ, dậy người Việt nam chữ viết, âm dương, ngũ hành, phong thuỷ, kinh dịch. Thần Nông là hậu duệ của Vua Phục Hy, phát triển lúa nước và văn hoá Việt nam ở Vùng Ba Vì. Thời kỳ này cách chúng ta là 8000 năm. Gốc tích người Việt là ở vùng đồng bằng sông Hồng. Lúc đó biển đến tận Hoà Bình, Sơn Tây, Hà Đông, Hà nội, Hà nam, Ninh Bình....chưa có Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh. Đất Bách Việt kéo dài từ phía Nam sông Dương Tử. Cụ Đế Minh (Nguyễn Minh Khiết) là hậu duệ của Vua Thần Nông. Có con là Lộc Tục, tức Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương là Vua của Kinh Châu và Dưong Châu, ở phía Nam Trung quốc. Phúc Kiến là Minh Việt, Quảng Châu là Nam Việt. Kinh Dương Vương có Mẹ là Đỗ Quý Thị, Cha là Đế Minh (Nguyễn Minh Khiết), người Hà Đông. Đế Minh là Hậu Duệ của Vua Thần Nông. Đỗ Quý Thị là Đệ nhất Thánh Mẫu, Bà cùng 8 người em trai đi tu, trở thành Hương Vân Cái Bồ Tát và Bát Bộ Kim Cương. Trong số các người em, có một người tên là Cụ Cóc, là cậu của Kinh Dưong Vưong. Nên có câu " Con Cóc là cậu ông Trời, ai mà đánh nó, thì Trời đánh cho". Kinh Dương Vương là Ngọc Hoàng Thượng Đế - Cha Trời. Thời kỳ này cách chúng ta khoảng 5000 năm Kinh Dương Vương (Lộc Tục) lấy Mẫu Thượng ngàn Hồng Đăng Ngàn và đẻ ra Lạc Long Quân (Sùng Lãm). Lạc có thể là từ Cực Lạc, Lạc Thư, Lạc Thuỷ, sự vui mừng...
Long là từ tên của Mẹ là Tiên Nữ Thần Long (Long Nữ). Vì vậy, chúng ta thường nói "Con Cháu Lạc Hồng". Bắt đầu lịch sử của 108 Vua Hùng với Cha Rồng (Lạc Long Quân), Mẹ Phượng (Tiên). Bà Hồng Đăng Ngàn là Đệ nhị Thánh Mẫu, giúp con cháu về giáo dục, y tế, đạo đức, phong thuỷ. Kinh Dương Vương được Vua Cha Đế Minh giao cai quản nước Xích Quỷ, từ phía Nam sông Dương Tử. Xích là đỏ, Quỷ là sao Quỷ (nằm trong nhị thập Bát Tú). Thời kỳ này là khoảng 2879 năm trước công nguyên (cách 2013 là 4892 năm) Lạc Long Quân lấy Mẫu Thoải Âu Cơ, Đệ Tam Thánh Mẫu, đẻ ra 100 trứng ở Đền Lăng Xương, Thanh Thuỷ, Phú Thọ. Nơi đây có suối nước nóng của đứt gẫy vỏ trái đất, nhận Địa khí, gần với Ba vì, nơi nhận được Thiên khí. Các con theo Cha xuống biển ở Hà Đông, theo Mẹ lên núi ở Việt trì, Phú Thọ. Người con cả được phong là Vua Hùng. Chúng ta có 108 Vua Hùng (18 Vua Hùng ghi trong sử sách là những người có công mở cõi). Đền Thờ các Vua Hùng, mộ các Vua Hùng, các Mẫu....đều nằm ở Kinh đô cổ Phong Châu, Vân nội, Hà Đông. Đình Lăng Xương cũng là nơi Cụ Nguyễn Cao Hành, lấy Cụ Đinh Thị Đen và đẻ ra Cụ Nguyễn Tuấn, Thánh Tản Viên, con rể Vua Hùng với câu chuyện Sơn Tinh và Thuỷ Tinh (Thần Biển và Thánh Núi). Thánh Tản Viên lấy công chúa Ngọc Hoa, Bà là Mẫu, con của Ngọc Hoàng. Bà cũng có tên là Thánh Mẫu Quế Hoa, Thánh Mẫu Quỳnh Hoa, Mẫu Liễu Hạnh xuống hạ giới giúp con cháu nước Nam. Thánh Tản Viên, Mẫu Liễu Hạnh, Thánh Gióng, Thánh Chử Đồng Tử là Tứ bất tử nước Nam. Giúp dân Nam biết học, làm nhà, đô thị, thương mại, dạy nghề, giữ nước, đánh ngoại xâm, chăm sóc sức khoẻ, sống đạo đức, trừ ma,diệt quỷ, giúp dân an, nước yên. Thánh Tản Viên là người thay Vua Hùng giữ nước và dựng nước. Sau truyền ngôi Vua Hùng cho Lê Thục Phán, cũng là con rể của Vua Hùng. Thục Phán xưng hiệu là An Dương Vương, đóng thành ở Cổ Loa, Hà nội. Triệu Đà là người Bình Đà, Hà Đông, kế tục nghiệp của Kinh Dương Vương, đóng đô ở Quảng Châu, xưng là Triệu Vũ Đế. Vì Thục Phán xưng Vương, nênmới xẩy ra câu chuyện nội chiến của người Việt. Cách đây khoảng 2500 năm.
Tứ Linh của Người Việt là Thần Kim Quy (Bắc), Long (Đông), Ly (Nam), Phượng (Tây). Kinh đô của các Vua Hùng là một dải đất từ Vân Đình, Ba La Bông Đỏ, Phố Xốm, Vân Nội, Hà Đông, Khương Hạ, Khương Đình, Khương Thượng, Khương Trung, Định Công, Đình Gừng, Kim Giang, ven sông Tô Lịch... gần Ngã Tư Sở và Chùa Phúc Khánh. Phong Châu, Phú Thọ là nơi thờ vọng (Mục đích là che dấu Mộ, Đình, Đền, Chùa, Miếu của Tổ Tiên, không bị phá hoại, không bị yểm bùa, trấn trạch; để phù hộ - độ trì cho Con, Cháu muôn đời hiển vinh). Kinh đô cổ của các nhà nước Cực Lạc, Hồng Bàng, Lạc Việt, Văn Lang, còn nằm ở các Huyện Thạch Thất, Quốc Oai, Thanh Oai, Ứng Hoà, Hà Đông...Phố Xốm, Vân Nội, Hà Đông chính là Phong Châu cổ, Kinh đô của Vua Hùng. Phong Châu, Phú Thọ là nơi thờ vọng Vua Hùng và che mắt kẻ ngoại xâm; đồng thời bảo vệ các khu Mộ cổ của Tổ Tiên. Mộ các Vua Cha thường tựa Tây Bắc, hướng Đông Nam. Mộ của Mẫu thường tựa Đông Bắc hướng Tây Nam. Kinh đô thường tọa Bắc Hướng Nam. Kinh đô Mỹ sơn tọa Tây hướng Đông. Vào những năm đầu sau công nguyên, Hai Bà Trưng đã giải phóng 65 Tỉnh thành, bao gồm các tỉnh phía Nam của Trung quốc và đến phía Nam dòng sông Dương Tử (Trường Giang) ngày nay. Đền thờ Hai Bà Trưng có ở rất nhiều nơi ở phía Nam Trung Quốc. Tỉnh Phúc Kiến có đảo " Sóng Trống" rất giống Trống Đồng, có Đền thờ Thần Kim Quy. Đây chính là nhà nước Minh Việt và có các chùa Việt. Tỉnh Quảng Châu có Mộ của Triệu Vi, cháu Triệu Đà với 10000 cổ vật quý. Mang đậm đà và sâu sắc các tinh hoa văn hoá Việt nam. Đặc biệt là Quốc huy " " Con Rồng, Cháu Tiên", Trống Đồng, Cồng chiêng, Đầu Rồng, đuôi Hổ và Hổ cắn lưng Rồng. Cách chúng ta khoảng 2230 năm. Quảng Châu là nơi khởi nguồn của các cuộc cách mạng. Nơi đây có nhà Tưởng niệm Tôn Trung Sơn, bạn của Cụ Phan Bội Châu và mộ của Cụ Phạm Hồng Thái. Các tỉnh phía Nam Trung quốc là nơi Bác Hồ huấn luyện các kẻ sĩ nước Nam. Năm 1941, bác về Cao Bằng, đi về bên trái và gặp cột mốc số 108 (Số của Thánh Mẫu). Về hang Pắc Bó, người dự báo 1945 sẽ giành độc lập tự do. Trong kháng chiến 9 năm, Bác lại nói 1954 về Hà nội. Bác làm Chủ tịch nước 24 năm, từ Ất Dậu đến Kỷ Dậu. Năm của Mẫu. Sinh nhật của Người là 8/4 Tân Mão, 10 tháng 5/1891. Ngày giỗ là 21/7 âm lịch, tháng Thân, năm Dậu. Bác Hồ được Cha Lạc Long Quân và Đức Thánh Cả Trần Hưng Đạo trợ giúp, lại sinh vào ngày Phật Đản. Họ Hoàng, họ Hồ và Họ Nguyễn đã trợ duyên cho Bác trên con đường cách mạng. Người Hán cưỡi ngựa, người Nam Việt đi thuyền. Nên có câu " Ngưu tìm Ngưu, mã tìm mã". Ngưu là trâu, là thuyền của văn minh lúa nước. Ngựa là của người Hán, du mục, trồng cao lương khô...người Việt tìm người Việt, người Hán tìm người Hán cũng là một giải thích khác. Trong 12 con Giáp của người Việt có con Mèo. Người Trung quốc thay Mèo bằng Thỏ. Vì người Việt cần Mèo để giữ kho thóc. Mèo lại là Tiểu Hổ, không dậy Hổ biết trèo. Trâu Việt nam lại quấn rơm cây lúa để lừa Hổ bị cháy lông, nên Hổ có vằn đen như ngày nay. Hổ là Chúa Sơn Lâm, là Vua của người Hán. Vì thích ăn Thỏ, ăn Dê... nên họ đổi Mèo thành Thỏ. Họ cử Thỏ sang chạy với Thần Kim Quy quanh hồ Hoàn Kiếm đều bị thua. Người Việt "Treo đầu dê, bán thịt chó" là để lừa người Phương Bắc, người Tầu, Chú Khách.....
Cách đây hơn 2500 năm chúng ta có Lão Tử. Cụ là người nước Nam, Thầy dậy của Khổng Tử. Hơn Khổng Tử 10 tuổi và hơn Phật Thích Ca Mâu Ni của Ấn Độ 20 tuổi. Cụ Lão Tử đề lại 81 bài thơ cổ. Được dịch ra các thứ tiếng, và được thừa nhận là tác phẩm hay nhất dậy làm người và Đạo Đức. Đạo là Đường; Đức là sức mạnh, hình dạng, cách ứng xử và lựa chọn của con người. Đạo Đức Kinh của Lão Tử đã trở thành cuốn sách về đạo đức và triết học của nhân loại. Được thừa nhận ở Phương Tây, Phương Đông...Loài người sẽ xây dựng đạo đức của chính mình theo Đạo Lão để tồn tại và phát triển trong hoà bình, nhân ái, bình đẳng, dân chủ, không mâu thuẫn, không dùng vũ lực, quyền lực và sự chiếm đoạt. Đạo đức của các Thầy dậy cho học trò là: "Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín". Bác Hồ dậy cán bộ phải "Cần, Kiệm, Liêm, Chính". Chín Đạo Đức quan trọng này là nền móng, là gốc, là tinh hoá của dân tộc Việt. Kẻ sĩ là các thầy đồ, thầy lang, thầy phong thuỷ , sống dựa vào nông dân: "Nhất sĩ , nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông, nhì sĩ". Kẻ sĩ là những người có học, biết Đạo, định hướng cho xã hội, làm tư vấn, làm thầy... Lo sức khoẻ, kiến thức, đạo đức, kỹ năng và dự báo tương lai... Kẻ sĩ lại phải giúp cho người nông dân có chữ Thánh Hiền Người Việt có chữ viết. Vua Hùng đã viết thư bằng chữ Việt cổ gửi nhà Hán. Tuyên bố về chủ quyền của nước Việt, phương Nam. Chữ Việt cổ xuất hiện ở Bảo tàng Indonesia với biểu tượng Con Rồng, Cháu Tiên. Đền thờ Thầy Cô giáo dậy chữ Việt cổ cho Vua Hùng thứ 6 và thờ Thần Kim Quy đi sứ nhà Hán ở Việt trì, Phú Thọ đã được tôn tạo lại.
Người Việt có Trống Đồng, Cồng Chiêng để tấu nhạc lễ, để đánh giặc, tìm mạch nước ngầm, thu năng lượng, thể hiện cuộc sống hạnh phúc, tự do, trình bầy lịch mặt trăng, nhà ở, nhà thờ, bốn mùa, kinh dịch v.v... Đồ đồng có ở Việt nam khoảng 5500 năm. Đền Thờ Thần Trống Đồng ở huyện Yên Định, Thanh Hoá và ở phố Thụy Khê, Hà nội còn ghi rõ lời thề từ đời Lý "Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, ai trái lời này, trời tru, đất triệt". Trống Đồng đạt trình độ cao về luyện kim, điêu khắc, nghệ thuật, âm thanh, hình khối. Các học giả phương Tây, sau 100 năm nghiên cứu, không hiểu được thông điệp của Trống Đồng. Năm 2008, đã có Hội thảo đầu tiên về Trống Đồng và đúc Trống Đồng ở Hà nội vào ngày 23/12. Sau Đông chí và ngày thành lập quân đội nhân dân với 34 chiến sĩ đầu tiên, do Bác Võ Nguyên Giáp chỉ huy, xuất quân từ rừng Trần Hưng Đạo. Bác Hồ là Người chọn ngày, chọn người chỉ huy, địa điểm tập kết, tên gọi và số lượng 34 người. Số 3 là Thiên Địa Nhân, Số 4 là Tứ Bất tử, Tứ Linh, Tứ Phủ, 4 mùa, bốn phương, 4 đức... 3 cộng 4 là 7, số của Thần và Thánh nước Nam. Cũng là tổng của ngày 22 cộng với tháng 12, bằng 34. Bác chọn các ngày sinh nhật là 19/5, cách mạng tháng 8 là 19/8 và toàn quốc kháng chiến 19/12...Vì số 1 là Thái Cực, số của Cha Lạc Long Quân, số 9 là số lớn nhất, số Của Thánh Mẫu, Mẫu Âu Cơ. Năm 43 sau công nguyên, Hai Bà Trưng bị thất bại, Mã Viện chiếm Phong Châu (Hà Đông). Sai thu các Trống Đồng để đúc thành cột đồng và ngựa đồng. Huỷ diệt các giá trị Việt, đe dọa dân Việt. Dòng sông Hát chảy từ Sơn Tây về Hà Đông, Vân Nội (Phong Châu) và đền thờ Hai Bà Trưng. Giếng làng trước đền thờ Hai Bà Trưng, theo các nhà ngoại cảm, vẫn còn cột đồng trên, cách chúng ta gần 2000 năm. Hịch kêu gọi khởi nghĩa của Hai Bà viết bằng chữ Việt cổ. Đã được các học giả dịch ra chữ quốc ngữ. Với 1000 năm Bắc thuộc, nhà Hán và các triều đại phương Bắc tìm mọi cách để huỷ diệt văn hoá Việt, trộn lẫn các giá trị, tạo nên những nhận thức sai. Cho rằng Văn hoá Việt là từ văn hoá của Trung quốc, Ấn độ v.v... họ nói nguồn gốc của người Việt là từ Mông Cổ, phía Bắc sông Hoàng Hà đi xuống phía Nam. Thực tế là ngược lại, người Việt đã đi từ Nam lên Bắc. Từ dòng sông Dương Tử đến Hoàng Hà là nhà nước Hoa Hạ, ở giữa nhà Hán ở Bắc và Bách Việt ở Nam. Văn hoá Việt Nam đã đi lên Bắc, sang Tây, sang Đông và xuốn Nam, đều xuất phát từ Châu thổ sông Hồng, sông Cái, Nhị Hà. Con Rồng, cháu Tiên, Cha Rồng, Mẹ Phượng, hoặc Cha Phượng (Mẫu Hệ, Cha quản lý Trời, vũ trụ), Mẹ là Rồng quản lý đất và nước. Đất Nước là Tổ Quốc, là cùng một Mẹ, cùng bào thai, nên gọi nhau là Đồng bào. Nghĩ bằng bụng, bằng rốn, bằng lòng tốt, bằng nhân ái. Tổ Tiên người Việt từ thời Vua Hùng là lịch sử của dựng nước và giữ nước. Chúng ta biết dựa vào Thánh, Thần, Mẫu, Ngọc Hoàng, Đức Phật để chiến thắng bất kỳ kẻ xâm lược nào. Chúng ta gọi các cuộc kháng chiến là kháng chiến Thần Thánh của người Việt nam; đã thắng Nguyên Mông, nhà Minh, Thanh, Pháp, Nhật, Mỹ, Trung quốc v.v... vì thực sự có sự trợ giúp của Tâm Linh. Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Quang Trung, Bùi Thị Xuân, Ngô Thời Nhậm, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Thị Định, Phạm văn Đồng, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Ái Quốc v.v... đều được Phật, Cha Trời, Mẹ Đất, Mẫu, Thánh, Thần trợ giúp bằng năng lượng Tâm Linh của Tổ Tiên người Việt
Thầy Việt nam rất giỏi, phá được các bùa trấn yểm của Phương Bắc, do Cao Biền thực hiện vào thời nhà Đường và Hoàng Phúc thực hiện ở sông Tô Lịch (thời nhà Minh). Các thầy phù thuỷ, phong thuỷ, thầy cúng của Phương Bắc tìm mọi cách yểm bùa, trấn trạch các long mạch Việt nam. Mục tiêu là : Việt nam mất nước, kẻ sĩ quên đường về với Mẹ. Chặn Long mạch từ Núi Tản, Ba Vì về cửa Tây Hoàng Thành. Kẻ sĩ không được nói và các giá trị văn hoá Việt Nam bị thuần hoá theo phương Bắc Bát quái sông Tô Lịch chạy dài từ đường Hoàng Quốc Việt đến Cầu Giấy, được nhà Minh xây dựng từ năm Ất Dậu 1405. Liên quan đến sự đô hộ của nhà Minh, chặn Long Mạch từ Tản Viên về cổng thành phía Tây và giết hại đại gia đình Nguyễn Trãi vào năm 1442. Từ 2001, Tân Tỵ, đến Quý Tỵ 2013, được sự giúp đỡ của Ngọc Hoàng, Mẫu, Thánh, Thần nước Nam, hận thù giữa Cao Biền, Hoàng Phúc, Thần Rắn với Nguyễn Trãi đã được xoá bỏ. Mở ra cơ hội "Rửa sạch nỗi thẹn ngàn thu, dựng nền Thái Bình muôn thuở". Nguyễn Trãi đã đề cao tư tưởng triết học Việt: "Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, dùng chí nhân thay cường bạo". Đây là giá trị tinh hoa văn hoá Việt, tràn đầy tình yêu thương và sáng ngời trí tuệ. Nguyễn Trãi là Hậu duệ của Thánh Tản Viên Nguyễn Tuấn và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Cùng với Nguyễn Xí giúp hình thành thời đại rực rỡ Lê Thánh Tông từ 1460. Nguyễn Du là cháu 14 đời của Cụ Nguyễn Xí. Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Du, Nguyễn An Ninh v.v... đều là con cháu Vua Hùng và Thánh Tản Viên. Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm nói:
"Nguyễn đi, rồi Nguyễn lại về". Họ Nguyễn là của Vua Hùng và thuần Việt. Các cuộc chiến tranh tâm linh đã và đang xẩy ra ở nhiều quốc gia. Các Pháp sư, các Phù thuỷ, các Thầy cúng.... các nhà ngoại cảm được huy động cho các mục tiêu và lợi ích quốc gia. Sức mạnh, quyền lực, công năng của Âm binh, ma, quỷ, tà đạo... có lúc đã từng lấn át Thiên Binh, Thánh, Thần, Mẫu. Nay trật tự và quy luật tự nhiên, nhân quả, thiện ác, luân hồi, tiến hoá; đang về đúng quỹ đạo. Phù hợp với Vận, Mệnh, Phong Thuỷ của nước Nam. Vận nước Nam đã tới. Quyền lực, quyền năng cao nhất thuộc về Phật, Ngọc Hoàng, Mẫu, Thánh, Thần và những người tử tế. Rồng Rắn lên mây, sẽ có cây lúc lắc, có nhà hiển vinh vào Xuân Giáp Ngọ, sau khi Rắn Quý Tỵ lột xác. Mệnh nước Nam sẽ được hiểu đúng: Thuỷ, Mộc, Hoả, Thổ, Kim. Mọi sự bắt đầu từ Thuỷ, tình nhân ái, công ơn Mẹ, nguồn gốc của sự sống, ý tưởng, sự sáng tạo, đổi mới. Phong thuỷ là khí, nước, năng lượng, thay đổi theo vận và mệnh. Thiên thời, Địa lợi, Nhân hoà sẽ tụ linh, hợp nhất như 3 quẻ Dịch : Càn, Khôn, Khảm. Tâm linh đã được các nước Phương Tây nghiên cứu từ sau đại chiến thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai. Vì có quá nhiều người bị chết và các linh hồn cứ lang thang, do chết khát, chết đói, chết trận. Thế kỷ 21 là thế kỷ Tâm linh, loài người sẽ đi về phương Đông, học tình nhân ái để tồn tại và phát triển. Đây là kết luận của Hội thảo quốc tế ở Thụy Điển năm 1981. Phương Đông chính là Việt nam. Việt nam đã, đang và sẽ là điểm đến của bạn bè 5 Châu, 4 Biển. Đúng như mong muốn của Tổ Tiên. Việt Nam là lương tâm của thời đại đã từng được dự báo, ngay trong cuộc kháng chiến thần thánh, chống Mỹ xâm lược.
Cái Thiện và cái ác, Thánh Thần và ma quỷ, âm binh và Thiên binh, âm và dương....đều cùng tồn tại. Có tà đạo và chính đạo. Có con người khi chết được về với Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A DI ĐÀ, về Tiên cảnh bông lai của Ngọc Hoàng - Kinh Dương Vương, các Vua, các Mẫu, các Thánh, các Thần. Linh hồn con người có thể quay về làm
người, phải làm ma quỷ, súc sinh hay bị giam cầm trong địa ngục. Theo luật Nhân Quả, Luân Hồi và Tiến Hoá, con người sẽ tự hoàn thiện mình, bằng tu luyện, rèn luyện....một cách vất vả, đầy thử thách. Giống Thầy trò Đường Tăng đi lấy kinh và trở thành Phật, ở Tây Phương Cực Lạc, Thạch Thất, Hà nội. Bác Hồ dặn:
"Gạo đem vào giã, bao đau đớn,
gạo giã xong rồi trắng tựa bông,
sống ở trên Đời người cũng vậy,
gian nan rèn luyện mới thành công".
Trong tù, Bác mơ thấy "sao vàng năm cánh, mộng hồn quanh " và tự nguyện "Thân thể ở trong lao, tinh thần ở ngoài lao, muốn nên sự nghiệp lớn, tinh thần phải càng cao". Cụ Nguyễn Du dậy " Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài". Cụ Trần Hưng Đạo kêu gọi " Hoà nước sông, chén rượu ngọt ngào"....(Còn nữa).
Tưởng nhớ cố Giáo Sư - Viện Sĩ Nguyễn Trường Tiến: Một người Thầy, một người anh cả, một người bạn tâm giao của tôi. Xin được biên soạn và trích đăng bài viết được ấp ủ gần 30 năm, âm thầm nghiên cứu, trải nghiệm Tâm linh của cố Giáo Sư tới ai yêu thích khám phá những điều bí ẩn (Anh đã biên tập và tặng lại tôi trên giường bệnh tại Bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô, 3 tuần trước khi anh trở về Tịnh Thổ quốc!)
VIỆN IBV
VIỆN TRƯỞNG
Chuyên gia cảm xạ học
Nguyễn Ngọc Sơn